Đặc điểm sinh học Cá hú

Cấu trúc cơ thể

Cá hú là loài cá da trơn (không vảy), thân trần, hình thoi, thon dài, hơi dẹp bên. Bụng thon, lườn bụng tròn. Mặt lưng của thân và đầu màu xám đen, bụng trắng xám (giống màu trắng sữa), nhìn xa thì thấy cá hú có màu xanh sẫm. Cuống đuôi thon, ngắn.

Các vây màu trắng trong, vây lưng đen nhạt, các tia vây lưng, vây hậu môn và vây bụng đều không kéo dài, chiều cao vây lưng ngắn hơn chiều dài đầu. Vây lưng và vây ngực có gai cứng. Lược mang trên cung mang thứ nhất có một hàng, dạng que ngắn (số lượng dao động trong khoảng 14 – 18 cái), xếp thưa nhau. Bóng hơi kín, nằm trong xoang bụng, có hai thuỳ: thuỳ trước to, thuỳ sau nhỏ.

Ðầu cá hú to và có hình nón, dẹp bên. Phần trán giữa hai mắt rộng và cong lồi. Mắt tương đối nhỏ, hình bầu dục. Nằm lệch về phía dưới của đầu và trên góc miệng. Mõm nhọn, miệng dưới hơi rộng, hình vòng cung và không co duỗi, hàm trên nhô ra.

Răng hàm nhỏ, mịn. Răng vòm miệng có ba đám: một đám răng lá mía nằm ở giữa hình chữ nhật với bốn gốc bầu (chiều rộng phải – trái tương đương hai lần chiều dài trước sau), hai đám răng khẩu cái nằm ở hai bên đám răng lá mía. Đôi râu mép kéo dài qua gốc vây ngực, đôi râu hàm kéo dài đến gốc vây ngực (có hai đôi râu, râu hàm trên dài đến gốc vây ngực, râu hàm dưới ngắn hơn).

Chế độ dinh dưỡng

Cá hú là loài cá ăn tạp nghiêng về các động vật như: động vật giáp xác, nhuyễn thể, côn trùng, động vật phiêu sinh và các loài cá sống đáy. Trong đó, giáp xác và nhuyển thể là hai loại thức ăn thường được cá hú tiêu hoá tốt. Cá hú rất ưa thích ăn các loài nhuyễn thể. Cấu tạo hệ tiêu hóa của chúng khá đặc biệt và thích hợp với việc bắt mồi dưới đáy bùn và tiêu hóa các loài có vỏ cứng. Miệng ở phía dưới đầu thích nghi với việc tìm thức ăn ở đáy, có hai râu mép tương đối dài dùng để tìm thức ăn. Răng nhỏ mịn và phân bố ở cả hàm trên và dưới có khả năng nghiền được các thức ăn có vỏ cứng.

Dạ dày của cá phình to hình chữ U và co giãn được, ruột cá ngắn, không gấp khúc lên nhau mà dính vào màng treo ruột ngay dưới bóng khí và tuyến sinh dục. Dạ dày to có vách khá dày, mặt trong có nếp gấp, ruột ngắn, tỷ lệ chiều dài ruột/chiều dài thân = 1,019 là đặc điểm của cá thiên về ăn động vật. Trong điều kiện thiếu thức ăn, cá có thể sử dụng các loại thức ăn bắt buộc khác như mùn bã hữu cơ, thức ăn có nguồn gốc động vật. Trong bè nuôi cá hú có khả năng thích nghi với nhiều loại thức ăn khác nhau do người cung cấp.

Sinh trưởng

Cá hú còn nhỏ tăng nhanh về chiều dài. Trong tự nhiên, cá con vớt trên sông vào tháng 4 - 6 đã có chiều dài 13,4 - 18,6 cm. Cá ương trong ao sau hai tháng đạt chiều dài 8 – 10 cm. Từ khoảng 1,5 kg trở đi, mức tăng trọng lượng nhanh hơn so với tăng chiều dài cơ thể. Khi đạt đến một kích thước nhất định thì chiều dài thân hầu như ngừng tăng. Nuôi trong bè một năm cá đạt 0,8 - 1,2 kg/con. Ðộ béo của cá cao nhất ở những tháng cuối năm và thường giảm đi khi vào mùa sinh sản. Trong tự nhiên đã gặp cỡ cá có chiều dài thân 0,5 m.

Tuổi thành thục của cá là 2 tuổi, trọng lượng cá thành thục lần đầu từ 1 kg trở lên và kích cỡ lớn nhất là 120 cm. Trong tự nhiên chỉ gặp cá thành thục trên sông ở địa phận thuộc CampuchiaThái Lan. Cá hú không có cơ quan sinh dục thứ cấp (sinh dục phụ), nên khó phân biệt được cá đực, cái khi nhìn hình dạng bên ngoài. Giai đoạn thành thục, phân biệt được đực cái khi kiểm tra trứng và tinh dịch. Hệ số thành thục của cá cái nuôi vỗ trong ao và bè từ 5 - 12 %. Mùa vụ thành thục của cá trong tự nhiên vào khoảng tháng 4 - 5 dương lịch, cá thường di cư đẻ tự nhiên trên những khúc sông thuộc địa phận giáp giới giữa Thái Lan và Lào. Cá đẻ trứng dính vào giá thể thường là rễ của các loài cây sống ven sông, sau khi nở cá bột theo dòng nước trôi về hạ nguồn.

Trong sinh sản nhân tạo, ta có thể nuôi thành thục và cho đẻ từ tháng 4 - 5 dương lịch. Sức sinh sản tuyệt đối (số trứng có trong buồng trứng) của cá hú trong sinh sản nhân tạo đạt 26.400 - 117.200 trứng, sức sinh sản tương đối trung bình 46.418 trứng/kg cá cái. Trứng cá hú tương đối nhỏ, đường kính lớn nhất lúc sắp sinh sản là 1 - 1,2 mm. Cá hú sinh sản vào mùa mưa. Đây là một trong những loài cá có tập tính di cư ngược dòng lên vùng trung lưu của sông Mê Kông ở khoảng biên giới Thái Lan và Lào để sinh sản khi mực nước và độ đục tăng lên. Cá con xuất hiện nhiều trên sông Tiền và sông Hậu thuộc địa phận tỉnh An GiangĐồng Tháp vào cuối tháng 6 - đầu tháng 7 hàng năm.